Đăng nhập
Chào Mừng Các Bạn Đến Với Website Đoàn - Hội Khoa Triết HọcLaughing

Từ khóa
Danh mục

Bạn cần thông tin gì nhất từ website
Hoạt động đoàn - hội
Học Thuật
Kĩ năng
Học bổng - việc làm

KHÁI NIỆM TÍNH CHÍNH ĐÁNG CHÍNH TRỊ VÀ TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC -  PH.ĂNGGHEN VỀ TÍNH CHÍNH ĐÁNG CỦA NHÀ NƯỚC

NGUYỄN VĂN QUANG (*)

Trên cơ sở làm rõ nội hàm của khái niệm tính chính đáng chính trị, tác giả đã phân tích quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính không chính đáng của nhà nước tư sản. Đồng thời, luận giải để chứng minh rằng, tính chính đáng của nhà nước chỉ có được khi nhà nước đó tạo ra các yếu tố để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội. Hình thức nhà nước đó chính là Nhà nước chuyên chính vô sản.

 

1. Khái niệm tính chính đáng chính trị

Tính chính đáng (legitimacy) là một khái niệm phức tạp trong khoa học chính trị. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thực sự có tính thuyết phục, thống nhất về khái niệm này. Tính chính đáng chính trị không phải gần đây mới được quan tâm, mà nó đã được một số nhà tư tưởng chính trị cổ đại, như Platon, Arixtôt... hay Khổng Tử, Lão Tử… đề cập đến ở những khía cạnh khác nhau. Hiện nay, vấn đề tính chính đáng chính trị đang được tranh luận khá sôi nổi, đặc biệt là các nhà khoa học chính trị phương Tây.

Theo nhà triết học chính trị người Đức, Dolf Sternberger, “tính chính đáng chính trị là sự thiết lập và thực thi quyền lực cai trị, trong đó về phần chủ thể quyền lực thì có ý thức là mình có quyền cai trị, còn về phía người dân là sự chấp nhận về sự cai trị đó”(1).

Seymour Martin Lipset - nhà xã hội học chính trị người Mỹ tranh luận rằng, tính chính đáng chính trị “liên quan đến năng lực của một hệ thống chính trị khiến người ta nảy sinh và giữ vững niềm tin rằng chế độ chính trị hiện tại là chế độ phù hợp và thích hợp nhất cho xã hội”(2). Về thực chất, khái niệm này chỉ cơ sở của sự thống trị là sự thừa nhận và ủng hộ của quần chúng nhân dân. Nhà chính trị người Pháp Jean - Marc Coicaud cũng đưa ra cách nhìn giống như vậy. Ông nói: “Tính chính đáng tức là sự thừa nhận quyền lực thống trị. Xét từ góc độ này, nó giải quyết vấn đề cơ bản mà cách giải quyết lại đồng thời chứng minh được quyền lực chính trị và tính phục tùng”(3).

Một cái gì đó sẽ trở nên chính đáng khi mọi người chấp nhận nó. Theo nghĩa này, một thể chế nào đó được coi là chính đáng nếu như có sự chấp nhận của mọi người rằng, thể chế đó đại diện cho tất cả mọi người, trong đó họ là chủ thể quyền lực của nó. John Locke, nhà tư tưởng lớn người Anh, đã nhìn nhận vấn đề tính chính đáng có liên quan tới sự đồng ý, ưng thuận của người bị cai trị đối với chủ thể cai trị. Trong chuyên luận thứ hai (second treaties), ông đưa ra luận cứ cho rằng, “chính phủ được coi là không chính đáng nếu nó không được thực hiện dựa trên sự ưng thuận về sự cầm quyền”(4).

Như vậy, qua quan niệm của một số nhà khoa học chính trị phương Tây, chúng ta thấy mỗi người có một cách tiếp cận dưới góc nhìn của những ngành khoa học khác nhau. Họ đều thống nhất ở một điểm rằng, tính chính đáng chính là sự chấp nhận của người dân đối với chủ thể cai trị. Trong những quan niệm về tính chính đáng được nêu ở trên, sự chấp nhận của người dân đối với sự cai trị là yếu tố hạt nhân của khái niệm tính chính đáng chính trị. Tuy nhiên, các nhà khoa học này mới chỉ nhìn nhận tính chính đáng trong mối quan hệ của quyền lực, đó là chủ thể này ra lệnh và chủ thể kia tuân thủ, phục tùng. Họ đều không đề cập đến vấn đề cái gì đã khiến những người bị cai trị phải tuân thủ, phục tùng chủ thể cai trị. Nói cách khác, điều gì của chủ thể cai trị làm cho người dân chấp nhận sự cai trị đó nhằm đạt được hiệu lực và hiệu quả của các mệnh lệnh. Đây mới thực sự là vấn đề quan trọng và cần phải được nghiên cứu.(3)

Về căn bản, việc sử dụng quyền lực của chủ thể quyền lực nói chung, nhà nước nói riêng, luôn gây ra khuynh hướng chống đối và do vậy, vấn đề nghiên cứu chính ở đây là, tại sao người dân công nhận và thực hành tự nguyện các quy định, các mệnh lệnh của các cơ quan nhà nước, ngay cả khi người đó (không muốn) - giống như Ph.Ăngghen từng khẳng định: quyền lực làm người ta khó chịu. Nói cách khác, mọi sự khủng hoảng chính trị có thể coi là sự mất tin tưởng vào khả năng cầm quyền, sự không chấp nhận tính đại diện của nhà nước, hoặc tổng quát hơn là khủng hoảng về tính chính đáng chính trị. Vì vậy, chủ thể quyền lực luôn phải tìm cách làm cho những người bị trị phải phục tùng, nếu không chủ thể đó sẽ mất quyền cai trị. Điều đó có nghĩa, chủ thể cai trị phải tìm được quá trình và phương thức thuyết phục của chính quyền đối với người dân, bằng lý lẽ và lương tri – tức là thiết lập được tính chính đáng. Từ chỗ chấp nhận, người dân tự thấy nghĩa vụ, bổn phận của mình phải ủng hộ và tuân thủ các mệnh lệnh mà nhà nước đưa ra. Có thể nói, cơ chế của tính chính đáng chính trị chính là nhằm thiết lập sự chấp nhận quyền cai trị. Như vậy, có thể hiểu: tính chính đáng chính trị là những yếu tố mà chủ thể cai trị thiết lập được để thuyết phục những người bị trị tuân thủ, ủng hộ các mệnh lệnh mà chủ thể cai trị đưa ra một cách tự nguyện nhằm đạt được hiệu lực và hiệu quả của quyền lực.

Theo đó, hạt nhân của khái niệm này là điều khiến người dân chấp nhận sự cai trị của chủ thể quyền lực, tức những yếu tố ngầm bên dưới quy định, ảnh hưởng đến sự chấp nhận chứ không phải bản thân sự chấp nhận, ủng hộ.

2. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính chính đáng của nhà nước

Tư tưởng cốt lõi trong lý luận của C.Mác về nhà nước là “Nhà nước được xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn giữa đời sống xã hội và đời sống tư, trên mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng”(5). Điều đó có nghĩa, mâu thuẫn lớn nhất của xã hội là mâu thuẫn giữa con người cá nhân và con người cộng đồng. Đồng thời, C.Mác cũng cho rằng, tất cả những đau khổ của con người đừng bao giờ mong đợi được giải quyết từ bộ máy hành chính – với tư cách là bộ máy quản lý, điều hành của nhà nước. Nếu những tệ nạn xã hội, những bất bình đẳng bị xoá bỏ, khi đó nhà nước đã mất đi cái cơ sở tồn tại của nó. C.Mác khẳng định: “...tình trạng phân tán này, tình trạng bỉ ổi này, ách nô lệ của xã hội công dân này là cái cơ sở tự nhiên trên đó nhà nước hiện đại được xây dựng, cũng giống như xã hội công dân chiếm hữu nô lệ là cái cơ sở tự nhiên trên đó xây dựng nên nhà nước cổ đại”(6). Nhà nước, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, chỉ là công cụ nhằm bảo vệ đặc quyền của một giai cấp nào đó và những quan hệ xã hội lấy sự ép buộc làm căn cứ, và trong đó, mọi công dân của nó đều phải chịu đựng những đau khổ và kiếp sống của những người nô lệ do nhà nước gây ra. Chừng nào còn nhà nước, cuộc sống nô lệ của người dân còn tồn tại, như C.Mác đã khẳng định: “Sự tồn tại của nhà nước và sự tồn tại của chế độ nô lệ gắn bó với nhau như hình với bóng”(7). Ông cũng nhấn mạnh rằng, bình đẳng trong xã hội có giai cấp, nhà nước là sự bình đẳng của giai cấp thống trị và sự bất bình đẳng của giai cấp bị trị mà thôi và tự do của giai cấp này là sự mất tự do của giai cấp khác.(5)

Từ cách nhìn này, quyền lực nhà nước không thể có được một địa vị chính đáng. Nó chỉ tạo thành một hệ thống xâm phạm vào các quyền cá nhân của đa số và bảo vệ cho lợi ích của một số ít (giai cấp thống trị). Đứng trước những đau khổ của con người, nhà nước luôn đi tìm nguyên nhân từ những hoàn cảnh nằm ngoài đời sống của mình, hay từ sự bất lực của bộ máy hành chính (bộ máy này có thể được điều chỉnh). Và, một khi những thiếu sót của bộ máy hành chính không thể điều chỉnh được thì nhà nước bắt đầu thể hiện bản chất lừa bịp của nó và đổ lỗi cho luật trời hay chính những người bị trị. Đó cũng là dễ hiểu! Nhà nước càng hiện đại bao nhiêu (như nhà nước tư sản hiện đại) thì nó càng có nhiều luận chứng để nguỵ biện cho những đau khổ mà nó gây ra cho con người, vì người cai trị luôn dùng “lý tính chính trị” được tư duy trong khuôn khổ của chính trị. Và những tư duy đó càng sắc sảo bao nhiêu, thì nó càng “không thể hiểu được” những tệ nạn xã hội, những đau khổ mà nó đã mang tới. Chẳng có gì có thể bào chữa cho những phân biệt chính trị, nó là một vấn đề để thủ tiêu tất cả các kết cấu tổ chức. C.Mác cho rằng, “muốn xoá bỏ sự bất lực của bộ máy hành chính của mình, nhà nước hiện đại ắt phải xoá bỏ đời sống riêng hiện nay. Mà muốn xoá bỏ đời sống riêng, thì nhà nước ắt phải tự xoá bỏ mình, bởi vì nó chỉ tồn tại như là mặt đối lập với đời sống riêng”(8). Tuy nhiên, nhà nước không bao giờ tự xoá bỏ đời sống riêng của nó – đó là tự sát. Muốn nó biến mất, thì những giai cấp bị trị, bị cô lập với nhà nước phải làm cách mạng. Vì, “linh hồn chính trị của cách mạng là nguyện vọng của các giai cấp không có ảnh hưởng chính trị muốn thủ tiêu sự cô lập của mình với nhà nước và với quyền thống trị”(9). Những cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành, như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đã khẳng định, “ghi lên lá cờ chiến đấu khẩu hiệu xoá bỏ chế độ tư hữu”. Nghĩa là những cuộc cách mạng ấy phải xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, làm cho đa số nhân dân lao động cũng có quyền chiếm hữu và làm chủ sở hữu, làm chủ tư liệu sản xuất. Nhờ cuộc cách mạng này, các giai cấp bị trị, bị bóc lột sẽ đập tan bộ máy nhà nước cai trị cũ và tổ chức lại theo cách của mình, mà ở đó nhà nước không còn là cơ quan quyền lực riêng của một số ít.(8)

Việc vạch rõ bản chất bóc lột, lừa bịp, của nhà nước cũ, coi đó như nguồn gốc của những tệ nạn xã hội cho thấy, bản thân nhà nước đã là không chính đáng! Tuy nhiên, C.Mác cũng khẳng định, chừng nào quần chúng chưa giác ngộ thì nhà nước vẫn còn có thể thuyết phục xã hội chấp nhận nó, và tất nhiên quyền lực của những người cai trị vẫn còn được duy trì, khi đó tính chính đáng của nó vẫn là giả tạo. Chừng nào mà quần chúng còn chưa nhận ra được sự giả tạo về tính chính đáng của nhà nước thì lúc đó, nỗi bất hạnh lớn nhất của con người vẫn chưa được xóa bỏ.

Bên cạnh việc vạch trần sự giả tạo về tính chính đáng của nhà nước nói chung, nhà nước tư sản nói riêng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi tìm tính chính đáng thực sự cần có của nhà nước trong tương lai (tức mang tính lý tưởng). C.Mác cho rằng, tổ chức lại xã hội sau khi tan vỡ bằng chủ nghĩa tư bản không thể đưa đến sự thủ tiêu việc tập trung lợi ích và sản xuất trong tay một số ít người, con người trong xã hội tư sản càng mất tự do hơn. Ông khẳng định: “... dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, các cá nhân tưởng rằng được tự do hơn trước vì những điều kiện sinh sống của họ là ngẫu nhiên đối với họ; thực ra thì dĩ nhiên là họ ít tự do hơn, vì họ bị phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh vật chất”(10). Muốn thủ tiêu được một cách triệt để những bất bình đẳng trong xã hội thì phải tổ chức theo một cơ chế quản lý nhất nguyên và không có tính cá nhân của xã hội cộng sản. Chính vì thế, C.Mác cho rằng, nhà nước như một công cụ áp bức, vẫn là một sự thành lập mang tính tạm thời. Sự tiêu vong của nhà nước là mang tính lịch sử.

Với sự xoá bỏ của đấu tranh giai cấp, nhà nước cũng đi đến tiêu vong. Điều này được C.Mác và Ph.Ăngghen luận giải đồng thời với tư tưởng về nhà nước vô sản. Trong quá trình luận giải về tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản, các ông cũng khẳng định chuyên chính vô sản là đỉnh cao cách mạng trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, nhà nước chuyên chính vô sản chẳng qua chỉ là “nhà nước nửa nhà nước”, là hình thức quá độ để nhà nước đi đến tiêu vong. Trong Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen khẳng định rằng, “khi Nhà nước cuối cùng, thật sự trở thành đại biểu của toàn thể xã hội, thì bản thân nó sẽ trở thành thừa. Một khi không còn giai cấp xã hội nào cần phải duy trì trong vòng áp bức nữa, một khi mà cùng với sự thống trị giai cấp và sự đấu tranh để sinh tồn xây dựng trên tình trạng vô chính phủ từ trước đến nay trong sản xuất, những xung đột và tình trạng rối loạn nảy sinh từ tình hình đó cũng đều bị loại trừ, thì lúc đó sẽ không còn gì để áp bức nữa, khi đó một lực lượng đặc biệt để đàn áp, tức là Nhà nước cũng sẽ không còn cần thiết nữa. Hành động đầu tiên, qua đó Nhà nước tỏ thật sự thể hiện là đại biểu của toàn thể xã hội - chiếm lấy các tư liệu sản xuất nhân danh xã hội - cũng đồng thời là hành động độc lập cuối cùng của nó với tư cách là Nhà nước. Sự can thiệp của chính quyền nhà nước vào các mối quan hệ xã hội sẽ hóa ra thừa trong lĩnh vực này đến lĩnh vực khác và tự lịm dần đi. Việc cai quản người sẽ nhường chỗ cho việc quản lý vật và chỉ đạo quá trình sản xuất”(11). Khi đó, các cá nhân trong xã hội sẽ được tự do và bình đẳng với nhau trong quá trình sản xuất. Xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng giữa những người sản xuất. Sự chiến thắng mang đến một sự biến đổi cuối cùng trong lối sống của con người qua sự hoà hợp giữa cá nhân với thế giới con người, bằng cách loại trừ sự phân chia giữa địa vị xã hội và địa vị cá nhân.

Theo C.Mác, công bằng xã hội đạt được không phải bằng cuộc cách mạng hợp pháp được thiết kế nhằm làm cho lợi ích vị kỷ cá nhân hoà hợp với lợi ích tập thể, mà bằng cách xoá bỏ những đối kháng của nó, bắt đầu từ sự phân công lao động. Một khi những đối kháng đó biến mất, sự thống nhất một cách tự nguyện, không có sự điều khiển và cưỡng ép của các thể chế sẽ cho phép đảm bảo sự hài hoà trong các mối quan hệ giữa người với người. Sự kết thúc bất bình đẳng xã hội cũng là hồi chuông báo hiệu cái chết của những khác biệt về chính trị. Chức năng tàn nhẫn do vai trò chính trị của nhà nước mang lại là những dấu hiệu của những xã hội tâm thần (alienated- societies), sẽ không còn tồn tại nữa và nhà nước chỉ giữ lại các chức năng quản lý xã hội đơn thuần. Những mâu thuẫn cá nhân không còn lý do để tồn tại. Mỗi người, sau đó, có trách nhiệm để phát huy khả năng của mình với mức độ lớn nhất có thể, tiến tới tính xây dựng cần thiết từ ý chí của tập thể. Ph.Ăngghen khẳng định: “Chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá nhân”(12). Để giành lại quyền tự do của con người, việc giành lấy tự do chính trị trở thành một nhiệm vụ cấp thiết đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Bởi vì, nếu không có tự do chính trị, không có và không thể có ảnh hưởng gì đến công việc của nhà nước thì họ vẫn là một  giai cấp không có quyền, bị lăng nhục và không được bày tỏ ý kiến của    mình. Trong học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen, giải phóng cá nhân chính là chìa khoá cho mọi sự giải mã về tự do, bình đẳng và quyền con người. Điều này được phản ánh qua luận điểm vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.(12)

Tóm lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã phê phán sự thiếu tính chính đáng của nhà nước nói chung và nhà nước tư sản nói riêng. Đồng thời, các ông đã khẳng định tính chính đáng của nhà nước chỉ có được khi nhà nước đó tạo ra được các yếu tố nhằm phục hồi và xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng giữa các cá nhân với nhau trong quá trình sản xuất của những con người tự do liên hợp lại - đó là xã hội lý tưởng, trong đó mỗi cá nhân có quyền tự do lựa chọn phát triển theo năng lực vốn có của mình. Hình thức nhà nước duy nhất đáp ứng được điều đó, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, chính là Nhà nước chuyên chính vô sản với tư cách hình thức quá độ trong tiến trình nhà nước tự tiêu vong.

********************

(*) Thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, Đà Nẵng.

([1]) Sternberger, Dolf. Legitimacy in International Encyclopedia of the Social Sciences (ed. D.L.Sills). Vol.9, New York: Macmillan, 1968, p.244 .

(2) Lipset, Seymour Martin. Political Man: The Social Bases of Politics (2nd ed), London: Heinemann, 1983, p.64.

(3) Coicaud, Jean - Marc. Legitimacy and Politic.  Cambridge University Press, 2002, p.10.

(4) Dẫn theo: Ashcraft, Richard (ed). John Locke: Critical Assessments. London: Routledge, 1991, p.524.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.605.

(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.605.

(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., tr.605.

(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.605.

(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.615.

(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.111.

(11) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.389 – 390.

(12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.108.

 

 
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
10-09-2021 15:43:21 Ninh012345

Chơi tài xỉu

Trả lời

 

Địa chỉ liên hệ: Văn phòng khoa Triết học A207, 10 - 12 Đinh Tiên Hoàng, Q.1, TP. Hồ Chí Minh.    
Tự tạo website với Webmienphi.vn