Đăng nhập
Chào Mừng Các Bạn Đến Với Website Đoàn - Hội Khoa Triết HọcLaughing

Từ khóa
Danh mục

Bạn cần thông tin gì nhất từ website
Hoạt động đoàn - hội
Học Thuật
Kĩ năng
Học bổng - việc làm

THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ

(ANGELS AND DEMONS)
Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình

Giới thiệu


 
Tác giả: Dan Brown
Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
Người hiệu đính: Trần Bình Minh
Người gõ: Mõ Hà Nội (Nguyễn Học)
Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, Hà nội 2007
Copyright © 2002 by Dan Brown
All rights reserved Vietnamese edition copyright © 2007 by Vietnam Culture and Information Publishing House
Vietnamese Edition arranged by Stanford J. Greenburger Associates Inc. In association with Andrew Nurnberg Associates International Ltd,
Bản quyền tiếng Việt thuộc về Nhà xuất bản Văn Hoá - Thông Tin
Tất cả các quyền được bảo hộ trên toàn cầu, bao gồm quyền sao chép, tái bản toàn bộ hay từng phần dưới bất cứ hình thức nào
Mọi thông tin xin liên hệ: 04. 9719531
***
Bạn đọc thân mến,
Xin cám ơn đông đảo bạn đọc đã đóng góp để "Mật mã Da Vinci" trở thành tác phẩm ăn khách.
Ra đời trước tác phẩm "Mật mã Da Vinci", cuốn sách mà các bạn đang có trong tay là câu chuyện kể về cuộc hành trình của nhà biểu tượng học Robert Langdon ở thành Vatican đúng một năm trước khi có chuyến thăm định mệnh tới bảo tàng Louvre.
"Thiên thần và ác quỷ" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi xây dựng nhân vật Langdon cùng với những kiến thức của nhân vật về nghệ thuật, biểu tượng học, mật mã, những tổ chức bí mật và vùng ranh giới giữa thiện và ác. Tôi mong rằng các bạn sẽ thấy những bí ẩn trong tác phẩm Thiên thần và Ác quỷ cũng hấp dẫn không kém gi những bức hoạ của Da Vinci. Cho dù moi quan tâm của các bạn đối với nghệ thuật như thế nào, tôi vẫn dám chắc rằng bạn sẽ tim thấy trong cuốn sách những câu hỏi hóc búa, những điều bí ẩn trong lịch sử, - cũng những tình huống ly kỳ và nhiều sự kiện bất ngờ.
Tôi thực sự hi vong các bạn cũng đam mê đọc sách và thích nhân vật Robert Langdon giống như niềm vui sướng của tôi khi viết tác phẩm này.
Xin chân thành cám ơn.

For Blythe

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Emily Bestler, Jason Kaufman, Ben Kaplan, và đội ngũ nhân viên của Nhà xuất bản Pocket Books vì họ đã tin tưởng vào dự án này. Cám ơn người bạn và người đồng nghiệp Jake Elwell vì sự nhiệt tình và những nỗ lực không mêt mỏi của anh. Cám ơn George Wieser huyền thoại, người đã thuyết phục tôi viết cuốn tiểu thuyết này.
Cám ơn người bạn thân thiết của tôi - Irv Sittler, người đã giúp tôi diện kiến Giáo hoàng và tiết lộ cho tôi nhiều bí mật của Vatican mà hiếm người biết được, và cũng là người biến chuyến thăm thành Rome của tôi thành kỷ niệm khó quên.
Cám ơn nghệ sĩ tài năng đương thời, John Langdon, người đã xuất sắc trong việc khơi gợi những thách thức tưởng chừng không thể thực hiện nỏi trong tôi và giúp tôi tạo biểu tượng Ambigram - biểu tượng hai chiều đối xứng - cho cuốn tiểu thuyết này.
Cám ơn Stan Planton, phu trach thư viện Trường Đại học Ohio -Chillicothe vì những nguồn thông tin quý báu trong rất nhiều chủ đề.
Cám ơn Sylvia Cavazzini vì chuyến đi tuyệt vời tới dương hạm Passetto bí ẩn.
Con cũng xin gứi tới cha mẹ, Dick và Connie Brown, lòng biết ơn… vì tất cả những gì cha mẹ đã dành cho con.
Tôi cũng xin cám ơn CERN, Henry Beckett, Brett Trotter, Viện khoa học giao chủ (Pontifical Academy of Science), Vien Brookhaven, Thư viện Fermi Lab, Olgar Wieser, Don Ulsch của Học viện An ninh Quốc gia, Caroline H. Thompson tai Trường Đại học Wales, Kathryn Gerhard và Omar Al Kinđi, John Pike và Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ, Heimlich Viserholder, Corina và Davis Hammond, Aizaz Ali, Dự án Galileo thuộc Trường Đại học Rice, Julie Lynn và Charlie Ryan thuộc hãng phim Mockingbird, Gary Goldstein, Dave (Vilas) Arnold và Andra Crawford, Hệ thống Hiệp hội Anh em Toàn cầu, Thư viện Học viện Phillip Exter, Jim Barrington, John Maier, đôi mắt cực kỳ tinh tường của Margie Watchtel, thành viên trang web: alt.masionic.members, Alan Wooley, Thư viện trưng bày Kinh thánh chép tay, Lisa Callamaro và Cong ty Callamaro, Jon A. Stowell, Bảo tàng Vatican, Aldo Baggia, Noah Alizera, Harriet Walker, Charles Ferry, Micron Electrics, Mindy Renselaer, Nancy và Dick Curtin, Thomas D. Nadeau, Nuvo Media và Rocket E-books, Frank và Sylvia Kenedy, Simon Edwards, Hãng du lịch Rome, Maestro Gregory Brown, Val Brown, Werner Brandes, Paul Krupin ở Direct Contact, Paul Stark, Tom King ở Computalk Network, Sandy và Jerry Nolan, Web guru Linda George, Vien Nghệ thuật Rome, Học giả tôn giáo và nhà vật lí Steve Howe, Robert Weston, The Water Street Bookstore ở Exeter, New Hampshire, và Đài quan sát Vatican.

THÔNG TIN


Cơ quan nghiên cứu khoa học lớn nhất thế giới - Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) - gần đây đã thành công trong việc tạo ra những hạt đầu tiên của phản vật chất. Phản vật chất giống hệt vật chất, chỉ trừ một điều nó được cấu tạo bởi các hạt có điện tích ngược với điện tích trong vật chất thông thường.
Phản vật chất là nguồn năng lượng mạnh nhất ma con người từng biết đến. Nó tạo ra năng lượng với hiệu suất 100% (trong khi phản ứng phân hạch hạt nhân chỉ đạt hiệu suất là 1,5%). Phản vật chất không gây ô nhiễm hay phóng xạ, và chỉ cần một giọt nhỏ cũng có thể cung cấp đủ năng lượng cho thành phố New York trong một ngày.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lo ngại…
Phản vật chất rất không ổn định. Nó sẽ phát nổ khi chạm vào bất cứ thứ gì… kể cả không khi. Chỉ riêng một gram phản vật chất đã chứa nguồn năng lượng của một quả bom hạt nhân 20 kiloton - bằng kích cỡ của trái bom thả xuống Hiroshima.
Cho đến gần đây, người ta mới chỉ chế tạo được một lượng phản vật chất rất nhỏ (khoảng vài nguyên tử mỗi lần). Nhưng CERN đã đưa ra bước đột phá dựa trên thiết bị hãm tốc phản Proton - một thiết bị sản xuất phản vật chất tiên tiến, hứa hẹn sẽ tạo được số lượng lớn phản vật chất.
Một câu hỏi được đặt ra là: Liệu thứ vật chất kém ổn định như vậy sẽ là cứu cánh cho thế giới này, hay nó sẽ được dùng để chế tạo thứ vũ khí huỷ diệt kinh hoàng nhất mà con người chưa từng biết đến?

LỜI TÁC GIẢ


Những tài liệu tham khảo liên quan đến các công trình nghệ thuật, kiến trúc, lăng mộ và đường hầm ở thành Rome là hoàn toàn có thật (cũng như vị trí chính xác của chúng). Chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Hội kín Illuminati cũng có thực.

SƠ ĐỒ THÀNH PHỐ ROME HIỆN ĐẠI



 

SƠ ĐỒ THÀNH VATICAN



1. Đại thánh đường St. Peter (Basilica)
2. Quảng trường St. Peter.
3. Nhà nguyện Sistine
4. San Borgia
5. văn phòng Đức Giáo hoàng
6. Bảo tàng Vatican
7. Sở chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ
8. Sân bay trực thăng
9. Khu vườn
10. Đường ngầm Passetto
11. San Belvedere
12. Bưu điện trung tâm
13. Sảnh diễn thuyết của Giáo hoàng
14. Cung điện Chính phủ.

 

 

LỜI DẪN


Nhà vật lí Leonardo Vetra ngửi thấy mùi da thịt cháy khét lẹt trên cơ thể mình. Ông kinh hãi nhìn bóng đen lù lù trước mắt:
- Ngươi muốn gì!
- Chìa khoá, - giọng nói khàn khàn đáp lại. - Mật mã.
- Nhưng… ta không…
Kẻ lạ mặt lại đè xuống, ấn mạnh cái vật sáng trắng, nóng rực lên ngực Vetra. Chỉ có tiếng xèo xèo của thịt cháy.
Vetra gào lên đau đớn:
- Không có mật mã nào hết! - Ông cảm thấy mình sắp ngất lịm đi.
Bóng đen nhìn trừng trừng.
- Ta rất sợ điều đó.
Vetra cố giữ cho đầu óc tỉnh táo, nhưng bóng tối đang bủa vây lấy ông. Niềm an ủi duy nhất là kẻ tấn công kia chưa lấy được thứ hắn muốn. Dù vậy, chỉ một lát sau, kẻ đó rút ra một lưỡi dao, dí sát vào mặt Vetra. Lưỡi dao vung lên. Rất gon. Rất điêu luyện.
- Vì Chúa! - Vetra thét lên. Nhưng đã quá muộn.

 

 

Chương 1


Từ trên bậc cao nhất của Kim tự tháp vĩ đại Giza, một phụ nữ trẻ đang cười và gọi vọng xuống.
- Robert, nhanh lên! Lẽ ra em nên lấy ông chồng trẻ hơn! - Nụ cười của cô đầy quyến rũ.
Anh gắng hết sức để theo cho kịp, nhưng đôi chân như hoá đá.
- Đợi đã. Làm ơn đi. - Anh năn nỉ.
Tiếp tục leo lên, anh thấy mọi thứ trước mặt nhoà đi. Trong tai anh như có tiếng đập thình thịch. "Mình phải đuổi kịp cô ấy". Những khi anh ngước lên lần nữa thì người phụ nữ đã biến mất, thay vào đó là một ông già răng rụng gần hết. Ông ta nhìn xuống, môi mím lại, vẻ nhăn nhó, rồi gào lên đau đớn, tiếng gào vang khắp sa mạc.
Robert Langdon tỉnh dậy sau cơn ác mộng. Chiếc điện thoại cạnh giường reo vang. Nửa tỉnh nửa mê, anh nhấc máy.
- Xin chào.
- Tôi cần gặp ông Robert Langdon, - giọng một người đàn ông cất lên.
Langdon ngồi dậy trên chiếc giường trống trải và cố gắng trả lời một cách tỉnh táo.
- Tôi… là Robert Langdon đây.
Anh ghé mắt nhìn đồng hồ. Mới có 5 giờ 18 phút sáng.
- Tôi cần gặp ông ngay lập tức.
- Ông là ai?
- Tên tôi là Maximilian Kohler, nhà vật lí hạt cơ bản.
- Là gì cơ? - Langdon hầu như không thể tập trung tư tưởng. - Ông có gọi đúng Langdon mà ông cần tìm không đấy?
- Ông là giáo sư ngành biểu tượng học của Trường đại học Harvard. Ông từng viết ba cuốn sách về biểu tượng và...
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ không?
- Tôi xin lỗi. Tôi có một thứ muốn nhờ ông xem hộ. Chuyện này không thể thảo luận trên điện thoại được.
Langdon rên lên. Trước đây, những chuyện tương tự như thế này đã từng xảy ra. Một trong những nỗi khổ của việc viết sách về biểu tượng tôn giáo là những kẻ cuồng tín thường gọi đến đòi anh khẳng định những dấu hiệu mới nhất của Chúa. Thág trước, một cô gái hành nghề thoát y ở bang Oklahoma hứa sẽ cho anh một đêm ái ân tuyệt vời nhất trong đời nếu anh có thể bay đến và chứng minh tính xác thực của biểu tượng thánh giá xuất hiện một cách kỳ lạ trên ga giường của cô ta. "Tấm vải liệm người chết ở Tulsa"(1), Langdon đã đặt cho nó cái tên như vậy.
- Làm thế nào ông có số điện thoại của tôi? - Dù vào giờ này, song Langdon vẫn cố gắng tỏ ra lịch sự.
- Trên mạng toàn cầu và trang web về cuốn sách của ông.
Langdon nhíu mày. Anh biết chắc chắn rằng trang web đó không nêu số điện thoại nhà của anh. Rõ ràng người đàn ông nay đang nói dối.
- Tôi cần gặp ông. - Người gọi điện khăng khăng. - Tôi sẽ trả công cho ông hậu hĩnh…
Đến lượt Langdon nổi đoá:
- Xin lỗi, nhưng tôi thực sự….
- Nếu đi ngay bây giờ, - ông có thể ở đây vào lúc….
- Tôi chẳng đi đâu hết! Mới có 5 giờ sáng! - Langdon gác máy và nằm vật xuống giường. Anh nhắm mắt và cố ngủ, nhưng vô ích. Giấc mơ ban nãy vẫn hiện rõ nét trong tâm trí anh. Anh đành miễn cưỡng mặc quần áo và đi xuống nhà.
Với đôi chân trần, Robert Langdon đi tha thẩn trong ngôi nhà trống trải ở bang Massachusetts được thiết kế theo phong cách Victoria, và tự chữa căn bệnh mất ngủ thường xuyên của mình bằng một cốc ca-cao Nestle Quik nghi ngút khói. Ánh trăng tháng 4 rơi qua khung cửa sổ lồi và đùa rỡn trên những tấm thảm phương Đông. Đồng nghiệp của Langdon vẫn đùa rằng nơi này giống bảo tàng nhân chủng học hơn là một ngôi nhà. Trên các giá chất đầy những mẫu vật tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới - bức tượng gỗ ekuaba(2) từ Ghana, cây thánh giá vàng của Tây Ban Nha, bức tượng thời kỳ đồ đồng của vùng biển Aegean(3), tượng gỗ đan boccus hiếm có của Borneo - biểu tượng trẻ mãi không già của các chiến binh.
Khi ngồi xuống bên chiếc rương đồng Maharishi và thưởng thức vị ấm nóng của so-co-la, anh chợt nhìn thấy hình ảnh mình phản chiếu trong khung kính cửa sổ, trong méo mó và nhợt nhạt… giống như ma. Một con ma già, anh nghĩ, hình ảnh đó gợi nhắc tới thực tế trần trụi là tâm hồn trẻ trung của anh đang sống trong vỏ bọc già cỗi.
Mặc dù không có vẻ ngoài đẹp trai theo kiểu cổ điển, song ở tuổi 45, Langdon được các nữ đồng nghiệp đánh giá là người có vẻ đẹp "thông thái" - mái tóc dày màu nâu, đôi mắt xanh ánh lên niềm khát khao học hỏi, giọng nói trầm trầm cuốn hút, nụ cười vô tư của một vận động viên thể thao thành viên trong đội tuyển lặn của trường trung học và đại học, Langdon vẫn giữ vóc dáng cao 1 mét 8 và thân hình rắn chắc của một vận động viên bơi lội bằng cách bơi 50 vòng quanh bể bơi ở trường đại học mỗi ngày.
Bạn bè của Langdon cho rằng anh thuộc tip người khó hiểu - con người của nhiều thế kỷ. Vào ngay nghỉ cuối tuần, bạn bè thường bắt gặp anh lang thang trong sân trường, mặc quần jean, thảo luận về đồ hoạ máy tính hay lịch sử tôn giáo với các sinh viên, có khi người ta lại bắt gặp anh trong chiếc ao vest thêu hoa làm bằng vải tuýt hiệu Harris và được đăng hình trên các tạp chí nghệ thuật hàng đầu khi tham dự lễ khai trường bảo tàng, nơi anh đã từng được mời đến thuyết giảng.
Mặc dù là một giáo viên khó tính và nghiêm khắc nhưng Langdon lại là người đầu tiên bạn bè chạy đến nếu muốn nghe "những chuyện cười nghệ thuật" - Sinh viên vẫn đồn rằng anh có biệt tài truyền sự say mê của mình sang người khác. Biệt danh "Cá heo" ở trong khu nội trú đã minh chứng cho bản chất hoà nhã và khả năng ngụp lặn kỳ diệu của anh, vượt trội hơn hẳn toàn bộ đối phương trong các trận đấu bóng Polo nước.
Khi Langdon ngồi một mình, lơ đễnh nhìn vào bóng tối, sự im lặng trong ngôi nhà bị tan bởi tiếng xành xạch của máy fax. Kiệt sức vì bị quấy rầy, anh gượng nở một nụ cười mệt mỏi.
"Người của Chúa, anh nghĩ. 2000 năm chờ đợi Chúa Cứu Thế, và họ vẫn kiên trì như vậy".
Anh mệt nhọc đặt chiếc cốc lên bàn ăn và chậm chạp tiến về bàn làm việc bằng gỗ sồi. Bản fax vừa gửi đến đang nằm trên khay. Anh thở dài nhắc tờ giấy lên xem.
Ngay lập tức, Langdon thấy buồn nôn.
Trên trang fax là hình ảnh của một xác chết, toàn thân bị lột trần, đầu bị vặn ngược ra sau. Trên ngực nạn nhân có một vết cháy sém khủng khiếp. Người này bị đóng dấu... khắc một từ.
Langdon biết rõ từ này. Rất rõ. Anh nhìn chằm chằm vào những chữ cái được trang trí hết sức cầu kỳ, không thể nào tin được.

- Illuminati… - anh lắp bắp, tim đập thình thịch. Không thể nào...
E ngại vì những gì mình sắp chứng kiến, Langdon chầm chậm xoay tờ fax 180 độ. Anh nhìn ngược từ đó.
Ngay lập tức, anh cảm thấy nghẹt thở, hệt như bị xe tải đâm. Không tin vào mắt mình, anh quay lại tờ fax, đọc xuôi rồi đọc ngược.
Illuminati, anh thì thầm.
Langdon sững sờ ngồi sụp xuống ghế. Anh lặng đi một lúc, hoàn toàn ngây dại. Một lúc sau, anh nhận ra ánh đèn đỏ vẫn đang nhấp nháy trên máy fax. Người gửi cho anh bản fax này vẫn đang giữ máy... chờ nói chuyện với anh. Langdon nhìn ánh dèn đỏ nhấp nháy một hồi lâu.
Rồi anh run rẩy nhấc điện thoại.
Chú thích:
(1) Tulsa: Thành phố lớn thứ hai ở bang Oklahoma, Mỹ.
(2) Ekuaba: tượng một vị thần làm bằng gỗ - biểu tượng cho sự phồn thịnh ở Ghana và các khu vực phụ cận.
(3) Aegean: vùng biển nằm gần Địa Trung Hải, giữa phía Nam bán đảo Balkan và Anatolian (giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ)

 

Chương 2


- Liệu tôi đã được anh chú ý đến chưa? - Giọng nói của người đàn ông cất lên khi anh trả lời đường dây.
- Vâng, ông đã làm được cái việc chết tiệt ấy rồi đấy. Ông muốn giải thích gì về bản thân?
- Ban nãy tôi đã định trình bày với ông. - Giọng nói có vẻ cứng nhắc. - Tôi là một nhà vật lí, đang điều hành một cơ sở nghiên cứu. Ở đây vừa xảy ra một vụ án mạng. Ông dã nhìn thấy xác chết rồi đấy.
- Làm thế nào ông tìm ra tôi? - Langdon hầu như không thể tập trung được vì tâm trí anh vẫn bị ám ảnh bởi hình ảnh trên tờ fax.
- Tôi đã nói với ông rồi. Trên mạng toàn cầu. Trên trang web về cuốn sách của ông: Nghệ thuật của Illuminati.
Langdon cố gắng tập trung suy nghĩ. Cuốn sách của anh ít người trong giới học thuật biết đến, nhưng nó vẫn được tung lên mạng. Tuy nhiên, những gì người đàn ông này nói có vẻ không hợp lí.
- Trang web đó không có thông tin liên lạc. - Langdon nói - Tôi chắc như vậy.
- Người của tôi ở phòng thí nghiệm rất thạo việc moi thông tin của người sử dụng từ trên mạng.
Langdon vẫn còn hoài nghi:
- Nghe cứ như phòng thí nghiệm của ông biết rất nhiều về Internet.
- Đúng thế, - người đàn ông đáp trả. - Chúng tôi tạo ra nó mà.
Giọng nói của người này cho thấy ông ta không đùa.
- Tôi cần gặp ông? - người gọi điện khăng khăng - Vấn đề này không thể đề cập trên điện thoại được. Phòng thí nghiệm của chúng tôi chỉ cách Boston một giờ bay.
Langdon đứng im dưới ánh sáng lờ mờ hắt ra từ bàn làm việc, chăm chú nhìn bản fax trong tay. Hình ảnh quá ấn tượng, có lẽ phải mất cả thế kỷ để tìm kiếm. Một thập kỷ nghiên cứu của anh chỉ để khẳng định một dấu hiệu.
- Rất khẩn cấp đấy. - Giọng nói ở đầu dây bên kia lộ rõ vẻ căng thẳng.
Mắt Langdon dán chặt vào hình dấu khắc. Illuminati, anh đọc đi đọc lại. Các công trình nghiên cứu của anh luôn dựa vào các biểu tượng đào từ dưới đất lên - những tài liệu cổ xưa với những câu chuyện truyền miệng - nhưng hình ảnh trước mắt anh là của thực tại. Của thời hiện tại. Anh thấy mình giống như một nhà cổ sinh vật đang đối mặt với một con khủng long sống.
- Tôi sẽ cử một máy bay riêng đến chỗ ông, - giọng nói cất lên. - Nó sẽ có mặt ở Boston trong vòng 20 phút nữa.
Langdon cảm thấy miệng đắng ngắt. Một giờ đồng hồ bay...
- Xin hãy tha lỗi cho sự đường đột của tôi, - giọng nói tiếp tục, - nhưng tôi cần ông ở đây.
Langdon nhìn lại bản fax - một bí ẩn cổ đại trong bức ảnh đen trắng. Y nghĩa sâu xa của nó thì thật là ghê rợn. Anh lại nhìn lơ đãng qua khung cửa sổ. Những tia nắng bình minh đầu tiên đang chiếu xuống hàng cây bulô ngoài vườn, nhưng sáng nay quang cảnh trông khác hẳn. Sự đan xen kỳ lạ của nỗi sợ hãi và cảm giác phấn khích tràn ngập trong anh. Langdon biết anh không còn sự lựa chọn nào khác.
- Ông đã thắng. - Anh nói - Cho tôi biết chỗ đậu máy bay.

Chương 3


Cách đó hàng chục ngàn kilômét, hai người đàn ông đang gặp nhau trong một căn phòng tối tăm bằng đá xây từ thời Trung cổ.
Benvenuto(1), người có quyền lực nói. Ông ta ngồi trong bóng tối nên không nhìn rõ mặt.
- Ngươi có làm được việc không?
Si(2), bóng đen đáp lại.
- Perfettamente(3) - Lời nói của hắn chắc như đinh đóng cột.
- Và không thể biết được ai là người phải chịu trách nhiệm?
- Không.
- Tuyệt vời. Ngươi đã lấy được thứ ta yêu cầu chưa?
Đôi mắt của kẻ giết người sáng quắc lên. Hắn đưa ra một thiết bị điện tử khá nặng và đặt lên bàn.
Người đàn ông trong bóng tối có vẻ hài lòng:
- Ngươi được việc lắm.
- Được phụng sự hội là niềm vinh dự đối với tôi. - Kẻ giết người đáp.
- Giai đoạn hai sẽ bắt đầu sớm thôi. Hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay chúng ta sẽ thay đổi cả thế giới.
Chú thích:
(1) Benvenuto (tiếng Ý): Chào mừng, Xxin chào.
(2) Si (tiếng Ý): Có.
(3) Perfettamente (tiếng Ý): Tuyệt vời.

 

(ANGELS AND DEMONS)
Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình

Chương 4


Chiếc xe SABB 9005 của Robert Langdon lao vun vút trong đường hầm Callahan và nhô lên ở bờ đông cảng Boston, gần lối vào sân bay Logan. Nhìn kỹ lại hướng đi, Langdon thấy đường Aviation và anh rẽ trái đi qua toà nhà của hãng hàng không Phương Đông. Cách lối vào gần 300m, một gara chứa máy bay lù lù hiện ra trong bóng tối, trên thân máy bay hiện con số "4" to tướng. Anh cho xe vào gara và bước ra ngoài.
Một người đàn ông có khuôn mặt tròn mặc bộ đồ bay màu xanh nước biển xuất hiện từ phía sau toà nhà.
- Ông Robert Langdon? - Anh ta gọi bằng giọng thân thiện. Langdon không thể xác định được anh ta nói bằng thứ thổ ngữ nào.
- Tôi đây. - Langdon vừa nói vừa khoá xe.
- Cực kỳ đúng giờ. - Người đàn ông nói - Chúng tôi cũng vừa hạ cánh. Xin mời đi theo tôi!
Khi họ đi vòng ra sau toà nhà, Langdon bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Anh không quen với những cuộc điện thoại bí ẩn và gặp gỡ với những người xa lạ. Không biết phải làm thế nào nên anh chỉ ăn mặc như thường ngày lên lớp - đôi giày vải bố, áo cổ lọ và thêm chiếc áo vét vải tuýt hiệu Harris. Vừa bước đi, anh vừa nghĩ về tờ fax để trong túi áo, vẫn không thể tin nổi hình ảnh đó.
Viên phi công đường như cảm nhận được nỗi lo lắng của Langdon.
- Ông không sợ bay chứ?
- Không hề, - Langdon đáp lại. Xác chết bị đóng dấu nung mới là vấn đề chính. Liệu mình có thể giải quyết được vụ việc này hay không?
Người đàn ông dẫn anh đi dọc theo nhà ga chứa máy bay. Họ đi vòng qua một góc rồi rẽ vào dường băng.
Langdon đứng chết lặng trên đường, há hốc mồm nhìn chiếc phi cơ đang đỗ trên sân băng rải nhựa.
- Chúng ta sẽ di bằng cái này sao?
Người kia cười cười:
- Ông không thích à?
Langdon nhìn chằm chằm một hồi.
- Thích ư? Cái thứ quỷ quái này là gì vậy?
***
Chiếc phi cơ trước mật họ thật đồ sộ. Nó gần giống chiếc tàu vũ trụ con thoi, trừ phần đầu đã được gọt đi trông khá bằng phẳng. Đậu lên đường băng, nó giống như một cái nêm khống lồ. Ấn tượng đầu tiên của Langdon là anh thấy mình như đang trong mơ. Trông nó giống như chiếc ô tô Buick trên không. - Trên thực tế, máy bay gần như không cánh - chúng chỉ như hai chiếc vây ngắn gắn vào thân máy. Bộ phận dẫn hướng nhô ra ở phần đuôi. Phần còn lại là thân máy bay - dài khoảng 61 mét không có cửa sổ, không có gì khác, chỉ đơn thuần là thân máy.
- Nếu nạp đầy nhiên liệu, trọng lượng máy bay là 250 tấn, viên phi công nói với giọng huênh hoang tựa như ông bố đang khoe đứa con sơ sinh. - Chạy bằng nguyên liệu hydro lỏng. Vỏ bằng hợp kim titan và sợi cac-bua si-li-côn. Tỷ lệ áp lực / trọng lượng là 20:1; động cơ phản lực thường chỉ chạy ở mức 7:1. Ngài giám đốc hẳn đang rất cần gặp ông. Thường thì ông ấy không cử chiếc máy bay này đi.
- Thứ này bay được à? - Langdon hỏi.
Viên phi công mỉm cười:
- Ồ, vâng. - Anh ta dẫn Langdon vượt qua đường băng tiến đến chiếc máy bay. - Ông có vẻ hơi ngạc nhiên, tôi biết, nhưng ông nên làm quen với nó. Trong 5 năm tối, ông sẽ toàn thấy những chiếc máy bay như thế - máy bay HSCT - phương tiện vận chuyển dân dụng tốc độ cao. Phòng thí nghiệm của chúng tôi là một trong những nơi đầu tiên sở hữu máy bay kiểu này.
Phòng thí nghiệm chết tiệt, Langdon thầm nghĩ
- Chiếc này là mô hình của Boeing X-33, - viên phi công tiếp tục, - nhưng còn hàng chục chiếc khác - máy bay hàng không vũ trụ quốc gia, người Nga có Scramjet, người Anh có HOTOL. Đây là máy bay của tương lai. Ông có thể tạm biệt những chiếc máy bay phản lực cổ điển được rồi.
Langdon nhìn chiếc phi cơ với vẻ thận trọng.
- Tôi vẫn thích loại máy bay phản lực truyền thống hơn.
Viên phi công chỉ tay về phía cầu thang:
- Đường này, thưa ông Langdon. Cẩn thận đấy!
Vài phút sau Langdon đã ngồi trong cabin máy bay vắng lặng. Viên phi công cài khoá an toàn cho Langdon ở hàng ghế trước rồi tiến về phía đầu máy bay.
Thật kinh ngạc, ở bên trong cabin, mọi thứ trông giống như một khoang máy bay thương mại cỡ lớn. Điều duy nhất làm Langdon không thoải mái là anh không thấy có cửa sổ. Cảm giác sợ bị giam hãm vẫn ám ảnh anh đến lận bây giờ - hậu quả của một tai nạn thời thơ ấu mà anh chưa vượt qua được.
Ác cảm của Langdon đối với không gian kín có giảm đi đôi chút nhưng nó vẫn hiện hữu theo nhiều cách tinh tế và khiến anh thấy mệt mỏi. Anh luôn tránh những môn thể thao trong nhà như quần vợt sân tường, hay bóng quần, và anh cũng không luyến tiếc khi phải trả tiền để được sống trong căn nhà kiểu Victoria trần cao, thoáng khí dù trong trường luôn luôn có nhà ở.
Langdon cho rằng thế giới nghệ thuật hấp dẫn anh ngay từ khi anh còn bé bởi anh yêu thích những khoảng không rộng mở trong các viện bảo tàng.
Tiếng động cơ khởi động ngay dưới chân anh. Chiếc máy bay lắc mạnh. Langdon thở khó nhọc và chờ đợi. Anh cảm thấy chiếc phi cơ bắt đầu di chuyển. Tiếng sáo tiêu dạo khúc nhạc đồng quê đang khe khẽ vang lên ngay trên đầu.
Điện thoại trên tường kêu bíp bíp. Langdon nhấc ống nghe.
- Xin chào!
- Ông cảm thấy thoải mái chứ, ông Langdon?
- Không hề.
- Thư giãn đi. Chúng ta sẽ đến đó trong vòng một tiếng nữa.
- Thế chính xác nơi đó ở đâu? - Langdon hỏi vì nhận ra anh không hề biết một chút gì về nơi anh đang đến.
- Geneva. - Viên phi công trả lời và tăng tốc động cơ. - Phòng thí nghiệm nằm ở Geneva.
- Geneva, - Langdon nhắc lại, cảm thấy thoải mái hơn chút ít. - Phía trên bang New York. thực sự tôi cũng có họ hàng ở gần hồ Seneca. Tôi không biết là ở Geneva có phòng thí nghiệm vật lí đấy.
Viên phi công phì cười:
- Không phải Geneva ở New York đâu. Geneva ở Thuỵ Sĩ kia.
Phải mất một lúc Langdon mới hiểu được từ đó:
- Thuỵ Sĩ? - Anh cảm thấy mạch máu đập ùng ùng: - Tôi tưởng các anh bảo phòng thí nghiệm chỉ cách có một giờ bay!
- Đúng đấy, ông Langdon. - Viên phi công cười thầm. - Máy bay này bay với tốc độ siêu thanh Mach 15(1).
Chú thích:
(1) Mach 15: Bay nhanh gấp 15 lần so với tốc độ âm thanh.

 

 

Chương 5


Trên một đường phố ở châu Âu, tên giết người đang luồn lách giữa dòng người đông đúc. Hắn là kẻ đầy uy lực. Da ngăm ngăm và mạnh mẽ. Vẻ nhanh nhẹn giảo hoạt. Các cơ trong người hắn vẫn căng lên sau cuộc gặp mặt ly kỳ đó.
"Mọi việc đều tối đẹp" hắn tự nhủ. Mặc dù kẻ thuê hắn không bao giờ để lộ mặt nhưng tên sát nhân vẫn cảm thấy hãnh diện khi được gặp người đó. Có phải ông chủ liên lạc với hắn lần đầu cách đây chỉ mới 15 ngày? Tên giết người vẫn còn nhớ như in lừng lời trong cuộc điện thoại đó...
- Tên ta là Janus. - Người gọi điện nói - Chúng ta là những huynh đệ cùng chung một kẻ thù. Ta nghe nói ngươi rất được việc.
- Cái đó còn phụ thuộc vào việc ông đại diện cho ai, - kẻ giết người đáp.
Người gọi điện nói cho hắn biết.
- Ông có đùa không đấy?
- Ta biết ngươi đã nghe nói đến tên của chúng ta, - người gọi điện đáp.
- Đương nhiên. Hội kín này chỉ còn là truyền thuyết.
- Và ngươi vẫn còn nghi ngờ.
- Ai mà chẳng biết hội kín đó đã tiêu tan thành cát bụi.
- Đó chỉ là một âm mưu để đánh lừa kẻ địch thôi. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là kẻ mà không ai ngờ đến.
Tên sát nhân vẫn còn ngờ vực:
- Hội kín đó vẫn còn tồn tại?
- Bí mật hơn bao giờ hết. Bọn ta có chân rết khắp nơi, mọi thứ như ngươi thấy... thậm chí cả ở trong pháo đài thiêng liêng nhất của kẻ thù muôn đời của hội.
- Không thể nào. Nơi đó là bất khả xâm phạm.
- Tầm với của chúng ta rất xa.
- Không ai có thể với xa như vậy.
- Ngươi sẽ tin điều này ngay thôi. Một cuộc biểu trưng quyền lực vô cùng hoành tráng của hội chúng ta sắp bắt đầu. Ngươi sẽ thấy!
- Ông đã làm gì?
Kẻ gọi điện nói cho hắn biết. Tên giết người mở to mắt:
- Điệp vụ đó là bất khả thi.
Ngày hôm sau, báo chí trên toàn thế giới đều đưa chung một cái tin. Tên giết người hoàn toàn tâm phục khẩu phục.
Bây giờ, sau 15 ngày, niềm tin của tên sát thủ đã được củng cố, bóng đêm ngờ vực đã tan biến hẳn. Hội kín vẫn còn tồn tại, hắn nghĩ. Đêm nay họ sẽ sống dậy và thực thi quyền lực.
Rảo bước trên phố, đôi mắt hắn ánh lên đầy hiểm ác. Một trong những hội kín đáng sợ nhất trên đời này đã vời đến hắn.
Họ đã lựa chọn một cách khôn ngoan, hắn nghĩ. Danh tiếng về tài giết người và sự kín mồm kín miệng của hắn đã vang xa.
Cho đến tận bây giờ, hắn vẫn luôn nhiệt tình phục vụ họ. Hắn đã giết người và chuyển cho Janus thứ ông ta yêu cầu. Bây giờ Janus muốn đặt vật đó ở đâu là tuỳ ông ta.
Nơi đặt vật đó...
Tên sát nhân băn khoăn không hiểu làm thế nào Janus có thể giải quyết một việc khó khăn đến vậy. Người này rõ ràng có nội gián. Quyền lực của hội kín dường như vô tận.
Janus, kẻ giết người nghĩ. Rõ ràng đây là một bí danh. Hắn băn khoăn, liệu nó có ngụ ý chỉ vị thần hai mặt của người La Mã... hay để chỉ mặt trăng của thần Satuya không? Không khác nhau là mấy. Janus đang sở hữu quyền lực vô biên. Ông ta đã minh chứng điều này một cách hết sức thuyết phục.
Chân tiếp tục sải bước, tên sát thủ hình dung tổ tiên đang mỉm cười với hắn. Đêm nay, hắn sẽ chiến đấu cho cuộc chiến của họ, cho kẻ thù chung mà họ đã chiến đấu từ bao lâu nay, từ thế kỷ XI… khi những đội quân thập tự chinh lần đầu tiên hành quân đến vùng đất quê hương hắn, bắn giết và cưỡng bức dân lành, viện cớ rằng họ không thanh sạch, rồi làm ô uế các đền thờ và các vị thần của họ. Tổ tiên của hắn từng tạo ra một đội quân nhỏ nhưng tinh nhuệ để tự bảo vệ mình. Đội quân này trở nên nổi tiếng khắp nơi với vai trò người bảo vệ - những tay đao phủ thiện nghệ lang thang khắp các vùng và tiêu diệt bất kỳ kẻ thù nào họ bắt gặp.
Những người này nổi tiếng không chỉ bởi kiểu giết người man rợ mà còn bởi những trận say ma tuý mà họ tự thưởng cho mình sau mỗi lần giết chóc. Thứ thuốc mà họ thường dùng là một loại chất gây nghiện có tên gọi hashish. Từ khi trở nên nổi tiếng khắp nơi, những sát thủ chuyên nghiệp này được gọi bằng một cái tên chung - Hassasin - nghĩa là "những tông đồ của hashish". - Cái tên Hassasin đồng nghĩa với sự chết chóc trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ngày nay, từ này vẫn được sứ dụng, kể cả trong tiếng Anh hiện dại… nhưng giống như những thủ thuật giết người, từ này cũng phát triển thêm.
Bây giờ người ta dùng thuật ngữ assasin- Sát thủ.

 

 

 

 
Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 

Địa chỉ liên hệ: Văn phòng khoa Triết học A207, 10 - 12 Đinh Tiên Hoàng, Q.1, TP. Hồ Chí Minh.    
Tự tạo website với Webmienphi.vn